Di Tích Lịch Sử Quảng Trường Sông Phố Đồng Nai

Di Tích Lịch Sử Quảng Trường Sông Phố Đồng Nai

Quảng trường Sông Phố tồn tại trong lòng người dân Đồng Nai như một biểu tượng của đô thị Biên Hòa gắn với chiến thắng của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, trải qua quá trình phát triển chung, hiện trạng của quảng trường Sông Phố cũng đã có nhiều thay đổi.

Quảng trường Sông Phố tồn tại trong lòng người dân Đồng Nai như một biểu tượng của đô thị Biên Hòa gắn với chiến thắng của mùa thu Cách Mạng Tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, trải qua quá trình phát triển chung, hiện trạng của quảng trường Sông Phố cũng đã có nhiều thay đổi.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Phố Hiến

Phố Hiến là một thương cảng - đô thị phồn hoa, nổi tiếng của Việt Nam vào thế kỷ XVII - XVIII, trải dài theo tả ngạn sông Hồng, được ví như “tiểu Tràng An” vì thế mà có câu: "thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến". Trải qua thời gian, hệ thống quần thể di tích lịch sử văn hoá vẫn còn hiện hữu và các lễ hội văn hoá truyền thống vẫn được nhân dân gìn giữ, tạo nên những nét văn hóa phong phú, đa dạng, đặc sắc trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa của dân tộc ta. Phố Hiến gồm 16 di tích có giá trị tiêu biểu về văn hóa, lịch sử, kiến trúc, điêu khắc, mỹ thuật... thuộc các phường Hiến Nam, Lam Sơn, Quang Trung, Hồng Châu, Lê Lợi, xã Hồng Nam, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

1. Văn Miếu Xích Đằng (phường Lam Sơn): dựng từ thời Lê và trùng tu năm Minh Mạng thứ 20 (1839), trên nền của chùa cổ Nguyệt Đường, mang đậm phong cách kiến trúc cung đình Huế, với tổng diện tích gần 6.000m2, gồm: Văn miếu môn, miếu thổ thần, lầu chuông, lầu khánh, tả/hữu vu, tiền tế, trung từ, hậu cung và công trình phụ trợ. Khu nội tự kết cấu kiểu chữ “Tam” gồm tiền tế, trung từ và hậu cung là nơi thờ Khổng Tử, Chu Văn An và các bậc tiên hiền đạo Nho. Ngoài ra, nơi đây còn lưu giữ 9 tấm bia đá ghi danh các khoa bảng tỉnh Hưng Yên.

2. Đền Mây (phường Lam Sơn): thờ Phạm Bạch Hổ (910 - 983) - danh tướng đã từng phù giúp bốn vị anh hùng dân tộc thế kỷ X là Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn. Tương truyền, đền khởi dựng từ thế kỷ thứ X, đến năm 1882 và 1898, được trùng tu, tôn tạo. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Tam” gồm 05 gian tiền tế, 05 gian trung từ và 03 gian hậu cung với các hạng mục và cấu kiện kiến trúc còn tương đối đồng bộ, với nhiều mảng chạm khắc đẹp, tinh xảo mang đậm phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê đan xen Nguyễn.

3. Đền Kim Đằng (phường Lam Sơn): thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trải qua thời gian, đền đã bị hư hại, được trùng tu nhiều lần. Đến năm 1994, địa phương phục dựng lại 05 gian tiền tế trên nền cũ và tu sửa lại hậu cung. Hiện nay, đền có kết cấu hình chữ “Đinh” gồm nghi môn, nhà khách, 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung.

4. Chùa Chuông (phường Hiền Nam): là một trong những “danh lam cổ tích”  trong Khu di tích Phố Hiến. Chùa được được trùng tu vào năm Chính Hoà thứ 23 (1702), Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Hiện nay, Chùa có kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” liên hoàn, cùng “Tứ thuỷ quy đường” mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê đan xen Nguyễn. Khu thờ chính gồm: tiền đường, thượng điện, hai dãy hành lang, gác chuông, gác khánh, nhà Mẫu và nhà Tổ.

5. Đình An Vũ (phường Hiền Nam): thờ Cao Sơn Đại Vương (theo truyền thuyết là em họ Tản Viên), có công giúp Vua Hùng chống giặc. Đình xây dựng vào thời Cảnh Hưng thứ 2 (1741), được trùng tu năm Bảo Đại thứ 4 (1929). Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, diện tích khoảng 3.135m2, gồm: nghi môn, đại bái, hậu cung. Các cấu kiện kiến trúc được chạm, trang trí nhiều đề tài: lá hóa rồng, lá lật, đao lửa... mang đậm phong cách mỹ thuật thời Hậu Lê.

6. Đền Nam Hoà (phường Hiến Nam): thờ ba vị thần là Đức Thiên Quan Đại vương, Đức Thổ Địa Long thần và Đức Thuỷ Phủ Động đình quân tôn thần. Đền được khởi dựng thời Nguyễn. Trải qua thời gian và lịch sử, đền bị phá bỏ nhiều hạng mục. Sau đó, chính quyền và nhân dân địa phương đã tiến hành phục dựng lại trên nền hậu cung trước kia. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Nhất”, gồm 03 gian, bốn mái, theo phong cách kiến trúc truyền thống.

7. Đền Trần (phường Quang Trung): gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - người anh hùng dân tộc, được nhân dân tôn là “Đức Thánh Trần”, “Đức Thánh Cha”. Đền được khởi dựng từ sớm, đại trùng tu vào năm Tự Đức thứ 16 (1863). Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Tam” gồm tiền tế, trung từ và hậu cung.

8. Đền Mẫu (phường Quang Trung): được khởi dựng từ đời vua Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo thứ nhất (1279); năm Thành Thái thứ 8 (1896) được đại trùng tu như hiện nay, gồm: nghi môn, đại bái, cung đệ Nhất, cung đệ Nhị, cung đệ Tam, hậu cung, phủ Đông, phủ Tây và hai dãy giải vũ. Đền còn lưu giữ nhiều hiện vật, đồ thờ quý như: long sàng, long kỷ, kiệu võng, bát bửu, châm thư, hoành phi, câu đối, tượng, phù điêu, … mang đậm dấu ấn thời Lê - Nguyễn. Đặc biệt, đền hiện còn 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn

9. Chùa Phố (phường Quang Trung): trùng tu, tôn tạo vào cuối thời Lê, đến đầu thế kỷ XX, Tổng đốc Thái Bình cho tu bổ lớn với mong muốn nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo của tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, chùa gồm các hạng mục: tam quan, tiền đường, thiêu hương và thượng điện, được làm kiểu “trùng thiềm điệp ốc” liên hoàn với nhau. Ngoài ra còn có nhà Mẫu, nhà bia, khu tăng xá.

10. Đền Thiên Hậu (phường Quang Trung): thờ thần Hàng hải (bà Lâm Tức Mặc) - bảo trợ của ngư phủ và người đi biển. Đền do người Phúc Kiến (Trung Hoa) dựng lên vào thế kỷ XVI - XVII, đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu “Nội tự ngoại tế” gồm: tam quan trong, thiêu hương, hậu cung, điện Mẫu cùng hai dãy giải vũ. Trang trí trên kiến trúc mô tả các tích cổ của Trung Quốc như: Tam quốc, Tây Du ký, cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông… được bảo lưu gần như nguyên vẹn đến ngày nay.

11. Võ Miếu (phường Quang Trung): do người Hoa xây dựng từ thời Lê Cảnh Hưng (1740) thờ Quan Công thời Tam Quốc, được trùng tu tôn tạo lớn vào thời Thành Thái (1898). Hiện nay, Võ Miếu có diện tích 612,8m2, kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” mang phong cách Việt pha lẫn kiến trúc Phúc Kiến (Trung Quốc), gồm: tam quan, sân, giải vũ, tiền tế, tòa thiêu hương, hậu cung.

12. Đền Bà Chúa Kho (phường Lam Sơn): thờ bà Lê Bạch N­ương- một phụ nữ trung quân ái quốc thời Lê, ngư­ời đ­ược triều đình phân công phụ trách kho ngân khố tại Vĩnh Ty Đồn (nay thuộc thành phố H­ưng Yên). Đền đ­ược xây dựng từ thế kỷ XVII đời Lê Hy Tông (1676 - 1682) và được trùng tu, tôn tạo vào thời Nguyễn. Hiện nay, Đền Bà có khuôn viên rộng 543m2, gồm: tiền tế và hậu cung, các hạng mục tương đối đồng bộ với nhiều mảng chạm khắc và hiện vật có giá trị cao.

13. Đình - chùa Hiến (phường Hồng Châu)

- Đình Hiến: được khởi dựng từ sớm, trùng tu lớn vào các thời Lê - Nguyễn. Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Đại bái và Hậu cung. Các mảng chạm khắc được tập trung tại Đại bái với các đề tài tứ linh, tứ quý… mang dấu ấn mỹ thuật thời Lê - Nguyễn đan xen

- Chùa Hiến: khởi dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần, trùng tu lớn năm 1892 niên hiệu Thành Thái. Hiện nay, chùa có kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” gồm tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hai dãy hành lang, hậu điện, nhà Tổ, nhà Mẫu... Tại sân chùa có cây nhãn Tổ nổi tiếng, cùng một số hiện vật quý như: tấm bia đá niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 7 (1625), 01 bia đá niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709)…

14. Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung (phường Hồng Châu): là nơi hội họp của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa sang buôn bán ở Phố Hiến thế kỷ XVI - XVII, đồng thời là nơi thờ tam Thánh của người Hoa (Thần Thái Y, Thần Hoa Quang và Thần Nông). Thiên Hậu Cung là nơi thờ bà Lâm Tức Mặc - vị thần Hàng hải của người Phúc Kiến.

Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung được dựng vào thế kỷ XVI (1590) do 14 dòng họ người Hoa quyên góp để xây dựng nên. Ban đầu Đông Đô Quảng Hội có kiến trúc kiểu chữ “Nhị” gồm 03 gian Hội quán và 03 gian hậu cung còn Thiên Hậu cung gồm 3 gian Tiền tế và 3 gian hậu cung. Sau đó, đến thế kỷ XIX - XX, Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu cung được trùng tu, tôn tạo lại. Hiện nay, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung kiến trúc kiểu chữ “Công”, mang đậm phong cách kiến trúc Trung Hoa đan xen với kiến trúc Việt.

15. Chùa Nễ Châu (xã Hồng Nam): được khởi dựng vào thời Tiền Lê, lúc đó ngôi chùa chỉ là 3 gian nhà lá. Đến thời Hậu Lê, chùa được đại trùng tu. Hiện nay, Chùa Nễ Châu, có kết cấu kiểu "Nội công ngoại quốc" gồm: tam quan, tiền đường, thượng điện và hai dãy hành lang..., các hạng mục kiến trúc mang đậm phong cách đan xen thời Lê - đan xen.

16. Đền Cửu Thiên Huyền Nữ (phường Lê Lợi): thờ Đức Cửu Thiên Huyền Nữ - người giúp nhân dân trong lúc hoạn nạn, nguy nan nên được tôn làm thánh. Đền được khởi dựng từ sớm, trải qua nhiều lần trùng tu, lần gần đây nhất là đời vua Bảo Đại (1937). Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Công”, gồm: tiền tế, ống muống và hậu cung.

Khu di tích Phố Hiến có nhiều hiện vật tiêu biểu, phân bố ở tất cả các di tích, bao gồm: chuông, khánh, bia đá, hoành phi, kiệu bát cống, ngai, bài vị, sắc phong, tượng phật...

Phố Hiến trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá với nhiều mối giao lưu quốc tế. Phố Hiến còn mang diện mạo của một đô thị kinh tế, kết cấu gồm: bến cảng sông, tập hợp chợ, khu phường phố và hai thương điếm phương Tây (Hà Lan và Anh). Mạch máu giao thương của Phố Hiến là sông Xích Đằng - đoạn sông Nhị Hà chảy sát Phố Hiến. Đây là nơi trung chuyển và là điểm tụ hội của những đoạn đường sông từ biển Đông vào tới kinh thành Thăng Long. Cùng với hoạt động thương mại, người nước ngoài đã mang đến Phố Hiến những phong tục tập quán, kiến trúc mang đậm bản sắc văn hoá riêng của từng quốc gia, từng dân tộc. Điều này đã hình thành nên nét văn hoá đặc sắc riêng của đất và người Phố Hiến, vừa là điểm hội tụ, vừa là điểm giao thoa giữa các nền văn hoá. Mặc dù bị suy tàn, nhưng những dấu tích còn lại của Phố Hiến cho đến nay vẫn là một quần thể di tích có giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử. Đây là nguồn sử liệu vô cùng quý báu, là bằng chứng chân thực nhất minh chứng cho sự hình thành và phát triển của Phố Hiến xưa (nay là thành phố Hưng Yên), là cơ sở để các nhà khoa học nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, kiến trúc, mỹ thuật, dân tộc, xã hội của Việt Nam nói chung và Phố Hiến nói riêng.

Nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị lịch sử văn hoá của cha ông để lại, từ nhiều năm nay, thành phố Hưng Yên đã khôi phục và tổ chức các lễ hội văn hoá vùng Phố Hiến, thường được diễn ra vào tháng Ba Âm lịch. Lễ hội gồm: lễ dâng hương, lễ cầu an, lễ rước kiệu của các di tích, cùng với đó là nhiều hoạt động phong phú, đặc sắc như văn hoá ẩm thực, thi cầu kiều, kéo co, chọi gà, cờ tướng, bơi chải, đàn và hát dân ca, hội thi thả diều sáo, trưng bày và giới thiệu sản phẩm đặc trưng vùng Phố Hiến, trưng bày cổ vật tại Bảo tàng tỉnh...

Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, Khu di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Phố Hiến (thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./.

Khắc Đoài (Theo Hồ sơ di tích, Cục Di sản văn hóa)

Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái - Nơi ghi dấu phong trào cách mạng cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 5/3/1990 theo Quyết định số 117/ VH-QĐ đúng dịp kỷ niệm 60 năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Di tích lịch sử khu mộ Nguyễn Thái Học và các cộng sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 tại Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái

I. Tên Di tích: Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

II. Loại hình Di tích: Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

III. Quyết định công bố Di tích: Quyết định số 117/ VH-QĐ, ngày 5/3/1990 của Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

IV. Địa điểm và đường đi đến Di tích:

Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, nằm trong khuôn viên công viên Yên Hòa (rộng 30 ha), bên cạnh đại lộ mang tên nhà yêu nước Nguyễn Thái Học, thuộc phường Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Ở vị trí này ta có thể đi đến Di tích bằng nhiều loại hình giao thông: Đường bộ, đường sắt, đường thủy.

V. Sơ lược lịch sử và thuộc tính của Di tích:

Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, nằm trong khuôn viên công viên Yên Hòa (rộng 30 ha ), bên cạnh đại lộ mang tên nhà yêu nước Nguyễn Thái Học, thuộc phường Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái được tỉnh Yên Bái xây dựng từ năm 2001 là nơi an nghỉ, ghi dấu tinh thần anh dũng quyết hy sinh cho phong trào cách mạng của nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và các chiến sỹ những năm đầu thế kỷ XX.

Nguyễn Thái Học - người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930

Nguyễn Thái Học sinh ngày 1/12/1902 tại Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là người yêu nước ngay từ khi còn ngồi trên ghế của nhà trường thực dân, ông đã gửi thư cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, kêu gọi tiến hành cải cách xã hội ở Việt Nam. Vị Toàn quyền Đông Dương ấy không thèm quan tâm tới những điều mà Nguyễn Thái Học đề nghị.

Ngày 25/12/1927, Nguyễn Thái Học và các đồng sự tổ chức thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng, ông được bầu làm Chủ tịch. Theo chương trình hành động vạch ra phải trải qua ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là thời phôi thai, tập trung tổ chức chi bộ, phát triển đảng viên, xây dựng các cơ sở Đảng; thời kỳ thứ hai, tổ chức các hội quần chúng xung quanh Đảng, thành lập các cơ quan tuyên truyền bán công khai, cử người ra nước ngoài học về quân sự để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa và xây dựng lực lượng vũ trang sau khi giành được chính quyền; thời kỳ thứ ba, công khai hoạt động, tổ chức khởi nghĩa, phối hợp với những đảng viên trong quân đội Pháp nổi dậy đánh chiếm các đồn bốt tiến tới giải phóng dân tộc, "khôi phục giang sơn"...

Sau vụ trùm mộ phu đồn điền Bazin ngày 9/2/1929 bị ám sát, Việt Nam Quốc dân Đảng bị nhà cầm quyền lùng sục, bắt bớ. Trước nguy cơ Việt Nam Quốc dân Đảng bị tan vỡ, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã quyết định tiến hành cuộc "tổng khởi nghĩa vũ trang". Nếu thất bại cũng là tấm gương cho đời sau tiếp bước, "Không thành công cũng thành nhân".

Lực lượng khởi nghĩa gồm khoảng 60 người từ dưới Phú Thọ đi tàu hỏa lên Yên Bái từ ngày hôm trước. Tại Yên Bái, lực lượng Việt Nam Quốc dân Đảng có khoảng 40 người, chủ yếu là lính khố đỏ thuộc đại đội 5, 6, 7 Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính khố đỏ số 4 Bắc Kỳ. Lính khố xanh không tham dự khởi nghĩa. Đêm 9 rạng ngày 10/2/1930, khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, nghĩa quân đã hạ sát được hầu hết bọn sĩ quan, hạ sĩ quan chỉ huy ở các nhà riêng, phối hợp với nghĩa quân hai cơ lính khố đỏ đồn 5 và 6 đồn Dưới nổi dậy. Trước sân trại lính, một đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng đọc bài "Hịch khởi nghĩa" với những khẩu hiệu: "Đuổi giặc Pháp về nước Pháp/ Đem nước Nam trả người Nam/ Cho trăm họ khỏi lầm than/ Được thêm phần hạnh phúc". Từng toán quân khởi nghĩa chia nhau đi chiếm nhà ga, bến xe và các cơ quan chính quyền của Pháp, tuyên truyền nhân dân hưởng ứng và ủng hộ nghĩa quân khởi nghĩa. Cờ của Việt Nam Quốc dân Đảng tung bay trên trại lính và các công sở. Do không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh cơ số 7 và số 8 ở trên đồn cao, trung tá Tacon củng cố lực lượng phản công lại. Nghĩa quân bị đánh bật khỏi các vị trí đã chiếm, cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu.

Phối hợp với khởi nghĩa Yên Bái, đêm 10/2/1930, lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng - Nguyễn Khắc Nhu đã lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa đánh đồn Hưng Hóa, chiếm phủ Lâm Thao. Theo kế hoạch khi giành thắng lợi ở Yên Bái và Hưng Hóa, hai nghĩa quân này sẽ hội quân tại Hưng Hóa, vượt bến Trung Hà tiến đánh đồn Thông ở Sơn Tây, hợp với quân của Phó Đức Chính chiến đấu tại đây.

Nghĩa quân đánh đồn Hưng Hóa, do không có nội ứng và vũ khí kém nên không đánh chiếm được đồn, nghĩa quân phải rút về Lâm Thao. Tại đây, quân nghĩa khởi do Phạm Nhận chỉ huy đã đánh chiếm được phủ Lâm Thao. Được sự chi viện của quân Pháp từ Phú Thọ, chúng tổ chức phản công dữ dội, do thiếu vũ khí lại thiếu người chỉ huy sau khi Nguyễn Khắc Nhu bị thương và bị bắt, nghĩa quân tan vỡ.

Cùng tiếng súng khởi nghĩa Yên Bái, nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng đã tổ chức cài bom nổ khắp thành phố Hà Nội, như: Sở Mật thám, bốt Cảnh sát Hàng Trống... để uy hiếp tinh thần và gây hoang mang cho quân Pháp khiến chúng phải đề phòng và nâng cao cảnh giác. Chúng ráo riết truy lùng những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng và những người yêu nước.

Lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng - Nguyễn Khắc Nhu

Sau khởi nghĩa Yên Bái 5 ngày, Nguyễn Thái Học tổ chức khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo, Phụ Dực, chủ trương tiến tới chiếm toàn bộ Hải Phòng. Nghĩa quân đã đánh chiếm được huyện lỵ Vĩnh Bảo, giết chết tên tri huyện Hoàng Gia Mô, một tên quan lại tham tàn độc ác. Với sự phản công quyết liệt của quân Pháp với vũ khí hiện đại, quân khởi nghĩa bị tiêu diệt.

Nguyễn Thái Học trốn thoát do được sự che chở của nhân dân. Cùng một số đảng viên tiêu biểu còn lại của Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Thái Học bàn bạc và dự định cải tổ lại Đảng và thay đổi phương hướng chiến lược và hoạt động của Đảng. Chủ trương này vừa khởi động thì ngày 20/2/1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Ngày 23/3/1930, ông bị kết án tử hình. Ngày 17/6/1930, Pháp đưa Nguyễn Thái Học cùng 12 chiến sĩ khác của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Yên Bái lên máy chém. Bước lên đoạn đầu đài, trước khi đưa đầu vào máy chém, Nguyễn Thái Học hô vang: "Việt Nam vạn tuế!".

Pháp phải thừa nhận khởi nghĩa Yên Bái đã giáng một đòn chí mạng vào chính quyền thuộc địa. Báo cáo của mật thám Đông Dương gửi Toàn quyền Đông Dương và Bộ Thuộc địa số 2037, phông RST/NF đã viết: "Việt Nam Quốc dân Đảng đã thành công trong việc tổ chức và đánh ngay vào quân đội mà đội quân ấy được thành lập dành cho mục đích thực hiện chức năng đàn áp và sự kiện lịch sử này đã giáng một đòn đặc biệt nghiêm trọng vào chính quyền thuộc địa...".

Nhà thơ cộng sản Pháp Louis Aragon xúc động trước cuộc khởi nghĩa Yên Bái với những tấm gương yêu nước và tinh thần bất khuất của người dân Việt Nam đã viết:

không thể bịt miệng một dân tộc

mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ"

Xin gửi tới những người anh em da vàng lời nguyền này,

để mỗi giọt cuộc sống các bạn đều tràn máu của một tên Varenne"

Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học ghi dấu cuộc “Khởi nghĩa Yên Bái” hiện nay gồm khu lăng mộ, khu tượng đài, khu nhà đón khách, bia tưởng niệm và khuân viên cây cảnh. Với ý tưởng tôn vinh tinh thần yêu nước, cho nên mọi chi tiết kiến trúc đều nhất quán, vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính văn hóa, vừa có ý nghĩa truyền thống, vừa có ý nghĩa thẩm mỹ lâu dài.

Khu tượng đài Nguyễn Thái Học và các cộng sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 tại Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái.

Nổi bật nhất khu vực này là câu nói nổi tiếng của Nguyễn Thái Học trở thành phương châm hành động và tư tưởng chủ đạo của Việt Nam quốc dân Đảng, đó là “Không thành công cũng thành nhân”, được nghĩa quân coi như lời thề quyết tử.

Mộ 1: Gồm 4 người bị hành quyết ngày 8/5/1930 là các ông cai phục vụ trong quân đội Pháp, nổi dậy trực tiếp chỉ huy đánh chiếm đồn Pháp

Mộ 2: Gồm 13 người bị hành quyết ngày 17/6/1930, là các yếu nhân của Việt Nam Quốc dân Đảng, trong đó có Nguyễn Thái Học (mất lúc 27 tuổi), Phó Đức Chính (mất lúc 21 tuổi)…

Bảng ghi tên 17 liệt sỹ, có mái che mô phỏng mái âm dương truyền thống của Việt Nam, tạo không gian linh thiêng, tôn kính. Mô phỏng lưỡi máy chém, ghi câu thơ dịch từ nguyên văn tiếng Pháp do Nguyễn Thái Học đọc trên đường ra pháp trường:

Lòng ta sung sướng, chí ta nhẹ nhàng…”

Ý đồ kiến trúc: 17 liệt sỹ tương ứng với 17 cột trụ được liên kết bằng vòng tròn không khép kín, biểu hiện sự dở dang, sự thiếu toàn vẹn, sự thất bại của cuộc khởi nghĩa, sự khiếm khuyết của phong trào. Mảnh vỡ được rơi về đất mẹ, ươm mầm cho sự tiếp tục, lòng yêu nước mãi mãi sinh sôi. Nhìn qua khoảng trống giữa các cột thấy được các bức tranh thiên nhiên sinh động. Đây là nơi tập trung anh linh tôn kính, với phong thủy độc đáo, gần với triết lý nhân sinh dân tộc. Với không gian kiến trúc mở, gợi liên tưởng về sự bất diệt giữa cõi trời, cõi đất và cõi người.

Nhóm tượng được đặt trên nền đất bền vững, theo nguyên tắc lý tưởng về sơn thủy. Nhân vật thứ nhất là Nguyễn Thái Học, được lấy nguyên mẫu từ bức ảnh khi ông là sinh viên thương mại, sáng láng trí tuệ, trẻ trung và đầy ý chí. Ông là linh hồn của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, trước khi lên đoạn đầu đài, thực dân Pháp bắt ông chứng kiến lần lượt 12 đồng chí của ông bị hành quyết. Dưới máy chém ông hô vang “Việt Nam vạn tuế”, tiếng hô nửa chừng, đầu văng ra, miệng vẫn còn mấp máy. Nhân vật thứ 2 là Nguyễn Khắc Nhu, 48 tuổi, chỉ huy trực tiếp đánh đồn Hưng Hóa nhưng không thành. Quân Pháp đuổi bắt, ông nằm trên trái mìn tự tạo, giật nổ nhưng ông chỉ bị thương. Với ý chí không chịu sa vào tay giặc, về nhà lao Hưng Hóa, ông đã tự đập đầu chết. Nhân vật thứ 3 là Phó Đức Chính, người trực tiếp chỉ huy đánh Đồn Thông (Sơn Tây). Trước khi lên máy chém, người Pháp hỏi: “Anh chết trẻ, có ân hận không?”, Phó Đức Chính trả lời: “Sống làm người mong làm một việc lớn, việc không thành có gì ân hận!”. Nhân vật thứ 4 là Nguyễn Thị Giang, thường gọi là cô Giang, người làm công tác binh vận, là vợ Nguyễn Thái Học, đã tổ chức đám cưới bí mật tại Đền Hùng, có sự chứng kiến của tổ chức và người nhà. Khi Nguyễn Thái Học bị chém, cô Giang đóng giả đàn ông, trà trộn vào người xem để được nhìn mặt chồng lần cuối. Rồi trở về quê Nguyễn Thái Học, thắp hương trên mộ tổ tiên, sau đó ra giữa cánh đồng, dùng khẩu súng ngắn Nguyễn Thái Học tặng để tự sát. Cô Giang để lại một bài thơ tuyệt mệnh rất cảm động. Chính vì thế mà cụ Phan Bội Châu đã viết bài văn tế cô Giang lên hàng nữ liệt của Việt Nam. Nhân vật thứ 5 là hình ảnh ông cai (lính Việt trong quân đội Pháp) đại diện cho lực lượng chủ yếu nổi dậy chống Pháp trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Lăng mộ và nhóm tượng đài đều hướng ra phía hồ Cô Giang, không bao giờ cạn nước, như lòng yêu nước mãi mãi dâng đầy.

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã để lại bài học lịch sử sâu sắc rằng con đường cách mạng dù phải trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng làn sóng yêu nước ngày càng lan tỏa. Những người hy sinh luôn được nhân dân tưởng nhớ, biết ơn và thành kính chăm chút.

Khởi nghĩa Yên Bái tuy không thành công, nhưng lòng yêu nước là bất diệt. Chính vì thế, trên đất nước ta, rất nhiều nơi lấy tên Nguyễn Thái Học đặt tên cho các đại lộ và các trường học. Nhiều tỉnh lấy tên Nguyễn Khắc Nhu (xứ Nhu), Phó Đức Chính, Cô Giang… đặt tên cho các đường phố. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ đã lấy đề tài khởi nghĩa Yên Bái để viết thành tiểu thuyết, thơ, nhạc, kịch bản sân khấu, để lại nhiều tác phẩm giá trị, thấm đẫm tình yêu nước. Cụ Phan Bội Châu đã viết bài văn tế về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các nhân vật trọng yếu của cuộc khởi nghĩa. Cụ Ngô Quang Đoan, yếu nhân của Quang Phục Hội đã có câu đối:

“Nghĩa lớn đã làm: Giết giặc, lòng son ngời nhật nguyệt”.

Nhân dịp kỷ niệm 89 năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9/2/1930 - 9/2/2019), năm 2017, tỉnh Yên Bái đã tu bổ, khánh thành Khu tưởng niệm thuộc quần thể di tích lịch sử cấp quốc gia Mộ Nguyễn Thái Học. Khu tưởng niệm đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo mở rộng quần thể di tích với một số hạng mục quan trọng như: Nhà tưởng niệm, nhà thường trực, hạng mục sân vườn, khu vực mộ, tượng đài, và khuôn viên cây xanh… với cấu trúc đường nét hài hòa, hiện đại vừa phản ánh được sắc thái của đời sống tâm linh, vừa khắc họa được ý tưởng tinh thần yêu nước quả cảm của các nghĩa sỹ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái gắn với công viên Yên Hòa, tạo thành một quần thể du lịch, văn hóa, lịch sử, tâm linh đặc sắc, thiêng liêng và hấp dẫn du khách.

Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái - Nơi ghi dấu phong trào cách mạng cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 5/3/1990 theo Quyết định số 117/ VH-QĐ đúng dịp kỷ niệm 60 năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái. I. Tên Di tích: Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. II. Loại hình Di tích: Di tích lịch sử cấp Quốc gia. III. Quyết định công bố Di tích: Quyết định số 117/ VH-QĐ, ngày 5/3/1990 của Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). IV. Địa điểm và đường đi đến Di tích: Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, nằm trong khuôn viên công viên Yên Hòa (rộng 30 ha), bên cạnh đại lộ mang tên nhà yêu nước Nguyễn Thái Học, thuộc phường Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Ở vị trí này ta có thể đi đến Di tích bằng nhiều loại hình giao thông: Đường bộ, đường sắt, đường thủy. V. Sơ lược lịch sử và thuộc tính của Di tích: Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, nằm trong khuôn viên công viên Yên Hòa (rộng 30 ha ), bên cạnh đại lộ mang tên nhà yêu nước Nguyễn Thái Học, thuộc phường Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái được tỉnh Yên Bái xây dựng từ năm 2001 là nơi an nghỉ, ghi dấu tinh thần anh dũng quyết hy sinh cho phong trào cách mạng của nhà yêu nước Nguyễn Thái Học và các chiến sỹ những năm đầu thế kỷ XX. Nguyễn Thái Học - người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 Nguyễn Thái Học sinh ngày 1/12/1902 tại Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông là người yêu nước ngay từ khi còn ngồi trên ghế của nhà trường thực dân, ông đã gửi thư cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, kêu gọi tiến hành cải cách xã hội ở Việt Nam. Vị Toàn quyền Đông Dương ấy không thèm quan tâm tới những điều mà Nguyễn Thái Học đề nghị. Ngày 25/12/1927, Nguyễn Thái Học và các đồng sự tổ chức thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng, ông được bầu làm Chủ tịch. Theo chương trình hành động vạch ra phải trải qua ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là thời phôi thai, tập trung tổ chức chi bộ, phát triển đảng viên, xây dựng các cơ sở Đảng; thời kỳ thứ hai, tổ chức các hội quần chúng xung quanh Đảng, thành lập các cơ quan tuyên truyền bán công khai, cử người ra nước ngoài học về quân sự để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa và xây dựng lực lượng vũ trang sau khi giành được chính quyền; thời kỳ thứ ba, công khai hoạt động, tổ chức khởi nghĩa, phối hợp với những đảng viên trong quân đội Pháp nổi dậy đánh chiếm các đồn bốt tiến tới giải phóng dân tộc, "khôi phục giang sơn"... Sau vụ trùm mộ phu đồn điền Bazin ngày 9/2/1929 bị ám sát, Việt Nam Quốc dân Đảng bị nhà cầm quyền lùng sục, bắt bớ. Trước nguy cơ Việt Nam Quốc dân Đảng bị tan vỡ, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã quyết định tiến hành cuộc "tổng khởi nghĩa vũ trang". Nếu thất bại cũng là tấm gương cho đời sau tiếp bước, "Không thành công cũng thành nhân". Lực lượng khởi nghĩa gồm khoảng 60 người từ dưới Phú Thọ đi tàu hỏa lên Yên Bái từ ngày hôm trước. Tại Yên Bái, lực lượng Việt Nam Quốc dân Đảng có khoảng 40 người, chủ yếu là lính khố đỏ thuộc đại đội 5, 6, 7 Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính khố đỏ số 4 Bắc Kỳ. Lính khố xanh không tham dự khởi nghĩa. Đêm 9 rạng ngày 10/2/1930, khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, nghĩa quân đã hạ sát được hầu hết bọn sĩ quan, hạ sĩ quan chỉ huy ở các nhà riêng, phối hợp với nghĩa quân hai cơ lính khố đỏ đồn 5 và 6 đồn Dưới nổi dậy. Trước sân trại lính, một đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng đọc bài "Hịch khởi nghĩa" với những khẩu hiệu: "Đuổi giặc Pháp về nước Pháp/ Đem nước Nam trả người Nam/ Cho trăm họ khỏi lầm than/ Được thêm phần hạnh phúc". Từng toán quân khởi nghĩa chia nhau đi chiếm nhà ga, bến xe và các cơ quan chính quyền của Pháp, tuyên truyền nhân dân hưởng ứng và ủng hộ nghĩa quân khởi nghĩa. Cờ của Việt Nam Quốc dân Đảng tung bay trên trại lính và các công sở. Do không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh cơ số 7 và số 8 ở trên đồn cao, trung tá Tacon củng cố lực lượng phản công lại. Nghĩa quân bị đánh bật khỏi các vị trí đã chiếm, cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu. Phối hợp với khởi nghĩa Yên Bái, đêm 10/2/1930, lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng - Nguyễn Khắc Nhu đã lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa đánh đồn Hưng Hóa, chiếm phủ Lâm Thao. Theo kế hoạch khi giành thắng lợi ở Yên Bái và Hưng Hóa, hai nghĩa quân này sẽ hội quân tại Hưng Hóa, vượt bến Trung Hà tiến đánh đồn Thông ở Sơn Tây, hợp với quân của Phó Đức Chính chiến đấu tại đây. Nghĩa quân đánh đồn Hưng Hóa, do không có nội ứng và vũ khí kém nên không đánh chiếm được đồn, nghĩa quân phải rút về Lâm Thao. Tại đây, quân nghĩa khởi do Phạm Nhận chỉ huy đã đánh chiếm được phủ Lâm Thao. Được sự chi viện của quân Pháp từ Phú Thọ, chúng tổ chức phản công dữ dội, do thiếu vũ khí lại thiếu người chỉ huy sau khi Nguyễn Khắc Nhu bị thương và bị bắt, nghĩa quân tan vỡ. Cùng tiếng súng khởi nghĩa Yên Bái, nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng đã tổ chức cài bom nổ khắp thành phố Hà Nội, như: Sở Mật thám, bốt Cảnh sát Hàng Trống... để uy hiếp tinh thần và gây hoang mang cho quân Pháp khiến chúng phải đề phòng và nâng cao cảnh giác. Chúng ráo riết truy lùng những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng và những người yêu nước. Lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng - Nguyễn Khắc Nhu Sau khởi nghĩa Yên Bái 5 ngày, Nguyễn Thái Học tổ chức khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo, Phụ Dực, chủ trương tiến tới chiếm toàn bộ Hải Phòng. Nghĩa quân đã đánh chiếm được huyện lỵ Vĩnh Bảo, giết chết tên tri huyện Hoàng Gia Mô, một tên quan lại tham tàn độc ác. Với sự phản công quyết liệt của quân Pháp với vũ khí hiện đại, quân khởi nghĩa bị tiêu diệt. Nguyễn Thái Học trốn thoát do được sự che chở của nhân dân. Cùng một số đảng viên tiêu biểu còn lại của Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Thái Học bàn bạc và dự định cải tổ lại Đảng và thay đổi phương hướng chiến lược và hoạt động của Đảng. Chủ trương này vừa khởi động thì ngày 20/2/1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Ngày 23/3/1930, ông bị kết án tử hình. Ngày 17/6/1930, Pháp đưa Nguyễn Thái Học cùng 12 chiến sĩ khác của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Yên Bái lên máy chém. Bước lên đoạn đầu đài, trước khi đưa đầu vào máy chém, Nguyễn Thái Học hô vang: "Việt Nam vạn tuế!". Pháp phải thừa nhận khởi nghĩa Yên Bái đã giáng một đòn chí mạng vào chính quyền thuộc địa. Báo cáo của mật thám Đông Dương gửi Toàn quyền Đông Dương và Bộ Thuộc địa số 2037, phông RST/NF đã viết: "Việt Nam Quốc dân Đảng đã thành công trong việc tổ chức và đánh ngay vào quân đội mà đội quân ấy được thành lập dành cho mục đích thực hiện chức năng đàn áp và sự kiện lịch sử này đã giáng một đòn đặc biệt nghiêm trọng vào chính quyền thuộc địa...". Nhà thơ cộng sản Pháp Louis Aragon xúc động trước cuộc khởi nghĩa Yên Bái với những tấm gương yêu nước và tinh thần bất khuất của người dân Việt Nam đã viết: "Yên Bái, Đây là điều nhắc nhở ta rằng, không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ" "Yên Bái, Xin gửi tới những người anh em da vàng lời nguyền này, để mỗi giọt cuộc sống các bạn đều tràn máu của một tên Varenne" Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học ghi dấu cuộc “Khởi nghĩa Yên Bái” hiện nay gồm khu lăng mộ, khu tượng đài, khu nhà đón khách, bia tưởng niệm và khuân viên cây cảnh. Với ý tưởng tôn vinh tinh thần yêu nước, cho nên mọi chi tiết kiến trúc đều nhất quán, vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính văn hóa, vừa có ý nghĩa truyền thống, vừa có ý nghĩa thẩm mỹ lâu dài. Khu tượng đài Nguyễn Thái Học và các cộng sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 tại Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái. Nổi bật nhất khu vực này là câu nói nổi tiếng của Nguyễn Thái Học trở thành phương châm hành động và tư tưởng chủ đạo của Việt Nam quốc dân Đảng, đó là “Không thành công cũng thành nhân”, được nghĩa quân coi như lời thề quyết tử. Mộ 1: Gồm 4 người bị hành quyết ngày 8/5/1930 là các ông cai phục vụ trong quân đội Pháp, nổi dậy trực tiếp chỉ huy đánh chiếm đồn Pháp Mộ 2: Gồm 13 người bị hành quyết ngày 17/6/1930, là các yếu nhân của Việt Nam Quốc dân Đảng, trong đó có Nguyễn Thái Học (mất lúc 27 tuổi), Phó Đức Chính (mất lúc 21 tuổi)… Bảng ghi tên 17 liệt sỹ, có mái che mô phỏng mái âm dương truyền thống của Việt Nam, tạo không gian linh thiêng, tôn kính. Mô phỏng lưỡi máy chém, ghi câu thơ dịch từ nguyên văn tiếng Pháp do Nguyễn Thái Học đọc trên đường ra pháp trường: “Chết vì tổ quốc chết vinh Lòng ta sung sướng, chí ta nhẹ nhàng…” Ý đồ kiến trúc: 17 liệt sỹ tương ứng với 17 cột trụ được liên kết bằng vòng tròn không khép kín, biểu hiện sự dở dang, sự thiếu toàn vẹn, sự thất bại của cuộc khởi nghĩa, sự khiếm khuyết của phong trào. Mảnh vỡ được rơi về đất mẹ, ươm mầm cho sự tiếp tục, lòng yêu nước mãi mãi sinh sôi. Nhìn qua khoảng trống giữa các cột thấy được các bức tranh thiên nhiên sinh động. Đây là nơi tập trung anh linh tôn kính, với phong thủy độc đáo, gần với triết lý nhân sinh dân tộc. Với không gian kiến trúc mở, gợi liên tưởng về sự bất diệt giữa cõi trời, cõi đất và cõi người. Nhóm tượng được đặt trên nền đất bền vững, theo nguyên tắc lý tưởng về sơn thủy. Nhân vật thứ nhất là Nguyễn Thái Học, được lấy nguyên mẫu từ bức ảnh khi ông là sinh viên thương mại, sáng láng trí tuệ, trẻ trung và đầy ý chí. Ông là linh hồn của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, trước khi lên đoạn đầu đài, thực dân Pháp bắt ông chứng kiến lần lượt 12 đồng chí của ông bị hành quyết. Dưới máy chém ông hô vang “Việt Nam vạn tuế”, tiếng hô nửa chừng, đầu văng ra, miệng vẫn còn mấp máy. Nhân vật thứ 2 là Nguyễn Khắc Nhu, 48 tuổi, chỉ huy trực tiếp đánh đồn Hưng Hóa nhưng không thành. Quân Pháp đuổi bắt, ông nằm trên trái mìn tự tạo, giật nổ nhưng ông chỉ bị thương. Với ý chí không chịu sa vào tay giặc, về nhà lao Hưng Hóa, ông đã tự đập đầu chết. Nhân vật thứ 3 là Phó Đức Chính, người trực tiếp chỉ huy đánh Đồn Thông (Sơn Tây). Trước khi lên máy chém, người Pháp hỏi: “Anh chết trẻ, có ân hận không?”, Phó Đức Chính trả lời: “Sống làm người mong làm một việc lớn, việc không thành có gì ân hận!”. Nhân vật thứ 4 là Nguyễn Thị Giang, thường gọi là cô Giang, người làm công tác binh vận, là vợ Nguyễn Thái Học, đã tổ chức đám cưới bí mật tại Đền Hùng, có sự chứng kiến của tổ chức và người nhà. Khi Nguyễn Thái Học bị chém, cô Giang đóng giả đàn ông, trà trộn vào người xem để được nhìn mặt chồng lần cuối. Rồi trở về quê Nguyễn Thái Học, thắp hương trên mộ tổ tiên, sau đó ra giữa cánh đồng, dùng khẩu súng ngắn Nguyễn Thái Học tặng để tự sát. Cô Giang để lại một bài thơ tuyệt mệnh rất cảm động. Chính vì thế mà cụ Phan Bội Châu đã viết bài văn tế cô Giang lên hàng nữ liệt của Việt Nam. Nhân vật thứ 5 là hình ảnh ông cai (lính Việt trong quân đội Pháp) đại diện cho lực lượng chủ yếu nổi dậy chống Pháp trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Lăng mộ và nhóm tượng đài đều hướng ra phía hồ Cô Giang, không bao giờ cạn nước, như lòng yêu nước mãi mãi dâng đầy. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã để lại bài học lịch sử sâu sắc rằng con đường cách mạng dù phải trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng làn sóng yêu nước ngày càng lan tỏa. Những người hy sinh luôn được nhân dân tưởng nhớ, biết ơn và thành kính chăm chút. Khởi nghĩa Yên Bái tuy không thành công, nhưng lòng yêu nước là bất diệt. Chính vì thế, trên đất nước ta, rất nhiều nơi lấy tên Nguyễn Thái Học đặt tên cho các đại lộ và các trường học. Nhiều tỉnh lấy tên Nguyễn Khắc Nhu (xứ Nhu), Phó Đức Chính, Cô Giang… đặt tên cho các đường phố. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ đã lấy đề tài khởi nghĩa Yên Bái để viết thành tiểu thuyết, thơ, nhạc, kịch bản sân khấu, để lại nhiều tác phẩm giá trị, thấm đẫm tình yêu nước. Cụ Phan Bội Châu đã viết bài văn tế về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các nhân vật trọng yếu của cuộc khởi nghĩa. Cụ Ngô Quang Đoan, yếu nhân của Quang Phục Hội đã có câu đối: “Nghĩa lớn đã làm: Giết giặc, lòng son ngời nhật nguyệt”. Nhân dịp kỷ niệm 89 năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9/2/1930 - 9/2/2019), năm 2017, tỉnh Yên Bái đã tu bổ, khánh thành Khu tưởng niệm thuộc quần thể di tích lịch sử cấp quốc gia Mộ Nguyễn Thái Học. Khu tưởng niệm đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo mở rộng quần thể di tích với một số hạng mục quan trọng như: Nhà tưởng niệm, nhà thường trực, hạng mục sân vườn, khu vực mộ, tượng đài, và khuôn viên cây xanh… với cấu trúc đường nét hài hòa, hiện đại vừa phản ánh được sắc thái của đời sống tâm linh, vừa khắc họa được ý tưởng tinh thần yêu nước quả cảm của các nghĩa sỹ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái gắn với công viên Yên Hòa, tạo thành một quần thể du lịch, văn hóa, lịch sử, tâm linh đặc sắc, thiêng liêng và hấp dẫn du khách.